Câu 1: * Cách vào đề bài thơ:
– Khổ thơ mở đầu 4 câu có tác dụng gây nghi vấn, gợi sự tò mò : Chuyện có vẻ như mộng mơ, bịa đặt “chẳng biết có hay không”, nhưng dường như lại là thật:
– Điệp từ “thật”: 4 lần / 2 câu;
– Câu cảm thán, ngắt nhịp 2/2/3: khẳng định chắc chắn, củng cố niềm tin, gây ấn tượng là chuyện có thật hoàn toàn:
⟹ Như vậy, cách vào chuyện thật độc đáo và có duyên, tạo được sự tò mò, chú ý cuốn hút người đọc về câu chuyện lên tiên của mình
Câu 2: Cảnh đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe:
* Thái độ của tác giả khi đọc thơ:
– Thi sĩ đọc rất nhiệt tình, cao hứng và có phần tự hào, tự đắc vì thơ văn của chính mình: Đương cơn đắc ý, đọc thơ ran cung mây
– Tác giả có nhu cầu muốn đọc hết cho Trời và chư tiên nghe những tác phẩm văn chương, những đứa con tinh thần của mình. Tự đắc, tự khen: Văn đã giàu thay lại lắm lối…
– Giọng đọc thơ của thi nhân vừa truyền cảm, vừa hóm hỉnh, vừa sảng khoái, cuốn hút người nghe.
⟹ Cá tính thơ và niềm khát khao chân thành của người thi sĩ:
– Tản Đà rất ý thức về tài năng của mình và ông cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ bản ngã cái tôi của mình. Những câu thơ đó như đã cực tả niềm tự hào, tự nhận thức của nhà thơ về tài năng sáng tạo nghệ thuật của mình. Ông cũng rất ngông khi tìm đến tận Trời để khẳng định tài năng của mình trước Ngọc Hoàng và chư tiên
– Niềm khao khát chân thành trong tâm hồn thi sĩ.
* Thái độ của trời và chư tiên khi nghe thơ: phản ứng chung: rất xúc động; tán thưởng và hâm mộ: cùng vỗ tay:
+ Thái độ của Trời:
– Đánh giá cao;
– Không tiếc lời tán dương:
“Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt !
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng !
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển !
Êm như gió thoảng, tinh như sương !
Advertisements (Quảng cáo)
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết !”
+ Chư tiên nghe thơ rất xúc động, tán thưởng và hâm mộ:
“Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong một bài cùng vỗ tay
…
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
Anh gánh lên đây bán chợ Trời ! ”
⟹ Như vậy, Tản Đà muốn khẳng định giá trị văn chương của mình. Ông muốn văn chương của mình được nhiều người yêu thích, biết đến và trân trọng.
Câu 3: Tản Đã đã phản ánh rất chân thực và cảm động về cuộc sống của mình cũng như tầng lớp văn nghệ sĩ đương thời:
“Bẩm Trời cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Advertisements (Quảng cáo)
…
Biết làm có được mà dám theo”.
– Tản Đà không chỉ muốn thoát li cuộc đời bằng những cuộc mơ ước lên trăng, lên tiên. Ông đã vẽ bức tranh hiện thực về chính cuộc đời tác giả, cũng như bao nhà văn khác. Họ vẫn sống và viết cho đến chết giữa cuộc đời nghèo khổ. Tản Đà tài năng là thế, ý thức về trách nhiệm sâu sắc là thế, song xã hội thực dân nửa phong kiến đã cướp đi của ông tất cả: không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, bị o ép nhiều chiều,… Qua đó, nhà thơ còn lên án xã hội bất công đã đẩy họ vào những tình huống bi đát nhất
– Trong bài thơ, Tản Đà không trực tiếp phát biểu quan niệm của mình về văn và nghề văn. Tuy vậy, ẩn sau câu chữ, ta vẫn thấy một sự hình dung khác trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này.
+ Dường như Tản Đà đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải trường vốn để theo đuổi nó dài dài
+ Trong mắt Tản Đà, văn chương lúc này là một nghề kiếm sống mới, có người bán, kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường cũng hết sức phức tạp, không dễ chiều
+ Tản Đà cũng chớm nhận ra: đa dạng về thể loại là một đòi hỏi thiết yếu của hoạt động sáng tác và với những sáng tác mới thì tiêu chí đánh giá tất nhiên là phải khác xưa
Câu 4: Những cái mới và hay về nghệ thuật của bài thơ là:
– Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do.
– Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm và rất gần gũi với đời sống, không cách điệu, ước lệ.
– Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên và lôi cuốn người đọc
– Từ ngữ nôm na, bình dị, như lấy ở đời sống bình thường.
– Tác giả tự hiện diện trong bài thơ với tư cách người kể chuyện, đồng thời là nhân vật chính. Cảm xúc biểu hiện phóng túng, tự do, không hề gò ép.
– Nhà thơ đã sáng tạo ra một cuộc hầu Trời thật lí thú, ngộ nghĩnh mà như thật.
LUYỆN TẬP:
CÂU 1: Cách xưng danh của tác giả:
– Tác giả đã tâu trình rõ ràng về họ tên, xuất xứ của mình cho Trời nghe.
“Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa Cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”.
Tác giả đã tách tên, họ theo một kiểu công khai lí lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, quốc tịch, châu lục, tên của hành tinh,…
– Có một nụ cười hóm hỉnh ẩn đằng sau vẻ thật thà, thành khẩn trước đấng trí tôn, nhưng điều đáng nói hơn hết vẫn là ý thức cá nhân, ý thức dân tộc của nhà thơ.
– Tác giả còn kiêu hãnh khi khai mình là đứa con đích thực của sông Đà núi Tản nước Nam Việt. Đồng thời qua đó, tác giả đã ngầm cho biết lai lịch của bút hiệu Tản Đà – một điều đã từng được ông thể hiện trong nhiều bài thơ khác.
– Cách nói của nhà thơ không chỉ là cách nói của ý thức cá nhân, của cái ngông mà còn chứa đựng một thái độ tự tôn dân tộc, một tình cảm yêu nước đáng quý.
– Những trường hợp xưng danh trong thơ thời văn học trung đại: Mời trầu – Hồ Xuân Hương, Đọc Tiểu Thanh kí – Nguyễn Du, Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Trứ
CÂU 2: – “Ngông” chỉ sự khác thường. “Ngông” trong văn chương dùng để chỉ một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thói thường có ở nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ.
– Trong bài Hầu Trời, cái ngông của Tản Đà có những biểu hiện nổi bật:
+ Tự cho mình văn
+ Không thấy có ai đáng là kẻ tri âm tri kỉ với mình ngoài Trời và chư tiên.
+ Xem mình là một trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông.
+ Nhận mình là người nhà Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả
+ Ngoài ra, việc nhà thơ bịa ra chuyện hầu Trời.
– Tản Đà không phải trường hợp ngông cá biệt trong văn học Việt Nam. Trước ông, những người như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,… đều ngông.