Trang Chủ Bài tập SGK lớp 6 Lịch sử và Địa lí lớp 6 - KNTT

Bài 7: Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại trang 29, 30, 31 Lịch sử lớp 6 KNTT

Trả lời câu hỏi trang 29, 30, 31, 32, 33 Lịch sử 6 KNTT. Phần Luyện tập – vận dụng bài 1, 2, 3 trang 33 SGK Lịch sử lớp 6 Kết nối tri thức với cuộc sống. Bài 7. Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại – Chương 3 Xã hội cổ đại

Câu hỏi mở đầu

Dưới đây là những hình ảnh mô tả chữ viết của người Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại. Em có biết người Ai Cập, Lưỡng Hà đã sáng tạo ra loại chữ viết này thế nào không? Họ đã xây dụng nền văn minh của mình trong điều kiện ra sao?

Người Ai Cập cổ đại là một trong những dân tộc đã sáng tạo chữ viết của mình sớm nhất thế giới. Người ta dùng những hình vẽ đơn giản để diễn đạt các từ, nên chữ viết của người Ai Cập được gọi là chữ viết tượng hình. Về hình dạng, chữ viết của người Ai Cập rất giống với các sự vật người ta muốn mô tả. Người Ai Cập thường viết chữ tượng hình trên gốm, đá,… nhưng thông dụng nhất vẫn là viết trên giấy pa-pi-rut, thân cây pa-pi-rut thường được dùng làm giấy.

Trong trường học ở Sumer cổ đại, thường thấy các học trò dùng những ”chiếc bút” làm bằng thân cây sậy hoặc cành cây vót đầu nhọn thành hình tam giác đang tập viết chữ bằng cách vạch ra các nét trên bảng đất sét. Học trò đọc ”sách” cũng là đọc trên những tấm bảng đất sét. Mỗi bảng đất sét nặng khoảng 1 kg, một cuốn sách 50 trang nặng đến 50 kg. Loại sách này được sắp xếp có quy tắc trên những giá gỗ chế tạo đặc biệt. Học trò cần học trang đất sét nào thì lấy từ trên giá gỗ xuống trang đó, học xong lại đem xếp về chỗ cũ. Trên bảng đất sét dùng sợi chỉ nhỏ vạch ra thành từng dòng. Chữ viết thành hàng ngang từ trái sang phải. Mỗi một nét chữ đều từ to đến nhỏ giống như các góc nhọn hay các đỉnh nhọn nên người ta gọi là ”chứ hình góc nhọn” hay ”chữ hình nêm” (cunéiforme). Đây là thứ chữ cổ ở lưu vực Lưỡng Hà.

Như vậy, người Ai Cập và người Lưỡng Hà đã xây dựng nền văn minh của mình trên những điều kiện thuận lợi của tư nhiên, đất đai màu mỡ, có những con sông chuyên bồi đắp phù sa và xây dựng nên những nền văn minh rực rõ trong thời cổ đại.

1. Tặng phẩm của những dòng sông

Câu 1. Dựa vào hai đoạn tư liệu (tr.30), hãy chỉ ra những điểm nổi bật về điều kiện tự nhiên của Ai Cập và Lưỡng Hà

Ai Cập nằm ở vùng Đông Bắc châu Phi, nơi có dòng sông Nin chảy qua. Lưỡng Hà là tên gọi vùng đất giữa hai con sông Ơ-phrát và Ti-gơ-rơ ở khu vực Tây Nam Á, cung cấp nguồn nước dồi dào, cùng với phù sa màu mỡ tạo nên những cánh đồng rộng lớn do phù sa các sống bồi đắp. Các dòng sông được khai thác trở thành những tuyến đường giao thông nối liền giữa các vùng để thúc đẩy thương mại.

Câu 2. Hình 4 cho em biết điều gì về sản xuất nông nghiệp của người Ai Cập cổ đại?

Nhờ có điều kiện tự nhiên thuận lợi, cư dân Ai Cập cổ đại đã đến định cư ở lưu vực sông Nin và chuyển từ đời sống chăn nuôi du mục sang làm nghề nông từ rất sớm. Trong cơ cấu kinh tế của Ai Cập cổ đại, ngay từ ngày xưa, nông nghiệp được xem là ngành kinh tế chính, còn các ngành khác như chăn nuôi, đánh cá, thủ công nghiệp, thương nghiệp có tính chất bổ trợ. Để canh tác nông nghiệp hiệu quả, người Ai Cập cổ đại đã dùng sức kéo của trâu bò và những lưỡi cày để xới đất hiệu quả hơn.

Câu 3. Cư dân Ai Cập và Lưỡng Hà đã khai thác thế mạnh của điều kiện tự nhiên để phát triển những ngành kinh tế nào?

Cư dân Ai Cập và Lưỡng Hà đã khai thác thế mạnh của điều kiện tự nhiên để phát triển các ngành kinh tế sau:

– Trên những cánh đồng phù sa màu mỡ do các con sông bồi đắp, người Ai Cập và người Lưỡng Hà đã biết làm nông nghiệp. Họ đã phát minh ra cái cày, biết sử dụng sức kéo của động vật để cày ruộng. Để trị thủy các dòng sông và dẫn nước vào ruộng, cư dân Ai Cập, Lưỡng Hà đã biết đắp đê đào hố và làm hệ thống kênh mương tưới tiêu.

– Các dòng sông được khai thác trở thành những tuyến đường giao thương chính, nối liền giữa các vùng, thúc đẩy thương mại ở Ai Cập và Lưỡng Hà phát triển.

Nhờ biết khai thác những thuận lợi của điều kiện tự nhiên, cư dân Ai Cập, Lưỡng Hà đã sớm tạo dựng được nền văn minh của mình.

Advertisements (Quảng cáo)

2. Hành trình lập quốc của người Ai Cập và Lưỡng Hà

Dựa vào thông tin trên và khai thác trục thời gian (tr.29), hãy nêu quá trình thành lập nhà nước Ai Cập và Lưỡng Hà.

– Ai Cập: Khoảng 3200 TCN, ông vua huyền thoại có tên là Mê-nét đã thống nhất các công xã còn được gọi là nôm, thành lập nhà nước Ai Cập. Từ đó, Ai Cập đã trải qua các giai đoạn:

+ Thế kỉ XXXII TCN- XXVII TCN: Tảo vương quốc.

+ Thế kỉ XXVII TCN- XXI TCN: Cổ vương quốc

+ Thế kỉ XXI TCN- XVIII TCN: Trung vương quốc

+ Thế kỉ XVI TCN- XI TCN: Tân vương quốc

+ Thế kỉ XI TCN – I TCn: Hậu kì vương quốc

+ Giữa thế kỉ I TCN, bị La Mã xâm lược.

Advertisements (Quảng cáo)

– Lưỡng Hà: Khoảng thiên niên kỉ IV TCN, người Xu-me đến định cư và thành lập các nhà nước thành bang tại vùng hạ lưu hai dòng sông. Sau đó, người Ác-cát, Át-xi-ri, Ba-bi-lon,… đã thành lập vương triều của mình, thay nhau làm chủ vùng đất này cho đến khi bị Ba Tư xâm lược vào thế kỉ III TCN.

3. Những thành tựu văn hóa chủ yếu

Nêu những thành tựu văn hóa chủ yếu của người Ai Cập và Lưỡng Hà.

Người Ai Cập và Lưỡng Hà có đại có nhiều phát minh quan trọng còn có giá trị đến ngày nay như cách làm thuỷ lợi, phát minh ra cái cày, bánh xe, chữ viết,..

– Những thành tựu văn hóa chủ yếu của Ai Cập:

+ Phát minh ra giấy: Người Ai Cập đã dùng thân cây Pa pi-rut để tạo giấy. Từ”paper” (giấy viết trong tiếng Anh) có gốc từ “Papyrus”. Người Lưỡng Hà dùng những vật nhọn có hình tam giác làm “bút” rồi viết lên tấm đất sét ướt tạo thành chữ giống hình cái nêm nên gọi là chữ hình nêm.

+ Chữ viết: Người Ai Cập dùng hình vẽ thực để biểu đạt ý niệm gọi là chữ tượng hình.

+ Toán học: Người Ai Cập đã biết làm các phép tính theo hệ đếm thập phân.

+ Phát minh ra lịch: Họ cũng biết làm lịch, một năm có 12 tháng, một tháng có 29 hoặc 30 ngày.

+ Kỹ thuật ướp xác của người Ai Cập cũng còn nhiều điều bí ẩn mà ngày nay các nhà Khoa học đang tìm lời giải đáp.

+ Kiến trúc: Kim tự tháp và tượng Nhân sư

– Những thành tựu văn hóa chủ yếu của Lưỡng Hà:

+ Chữ viết: Người Lưỡng Hà dùng chữ hình nêm. Đó là loại chữ cổ nhất thế giới

+ Toán học: Người Lưỡng Hà thì theo hệ đếm 60,  từ đó, người Lưỡng Hà phân chia 1 giờ thành 60 phút và 1 phút gồm 60 giây, tính được diện tích các hình

+Kiến trúc: Vườn treo Ba-bi-lon.

Luyện tập – vận dụng bài 1, 2, 3 trang 33 SGK Lịch sử 6 Kết nối tri thức

Câu 1. Từ các hình ảnh và thông tin ở mục 3, em ấn tượng nhất với thành tựu văn hóa nào của người Ai Cập và Lưỡng Hà? Vì sao?

Em ấn tượng nhất với công trình Kim tự tháp ở Ai Cập, đặc biệt là Kim tự tháp Kê-ốp có chiều cao tới 147m. Đế xây dựng công trình này, người ta sử dụng tới 2,3 triệu tăng đá, mỗi tảng nặng từ 2,5 đến 4 tần được ghè đẽo theo kích thước đã định, rồi mài nhẵn và xếp chồng lên nhau hàng trăm tầng mà không dùng bất cứ vật liệu kết dính nào. Trải qua hàng nghìn năm, đến nay các kim tự tháp vẫn đứng vững như muốn thách thức với thời gian.

Câu 2. Em hãy nêu một số vật dụng hay lĩnh vực ngày nay mà chúng ta đang thừa hưởng từ các phát minh của người Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại.

Một số vật dụng hay lĩnh vực mà ngày nay chúng ta đang thừa hưởng từ các phát minh của người Ai Cập và Luỡng Hà cổ đại:

+ Hệ đếm 60 và 1 giờ có 60 phút: Người dân Lưỡng Hà sử dụng hệ thống số đếm 60. Từ đó, người Lưỡng Hà phân chia 1 giờ thành 60 phút và 1 phút gồm 60 giây. Cũng chính nhờ vào cơ số 60, vòng tròn được chia thành 360 độ.

+ Toán học: Từ xưa, người Lưỡng Hà cổ đại biết cách làm 4 phép tính cộng trừ nhân chia, biết phân số, luỹ thừa, căn số bậc hai và căn số bậc 3. Họ biết lập bảng căn số để dễ tra cứu và biết giải phương trình có 3 ẩn số. Họ biết tính diện tích nhiều hình và biết cả quan hệ giữa 3 cạnh trong tam giác rất lâu trước khi Pitago (sống vào những năm 500 TCN) chứng minh điều này.

+ Lịch âm 12 tháng: Những nhà thiên văn học người Babylon (một bộ phận của nền văn minh Lưỡng Hà) có thể dự đoán các kỳ nhật nguyệt thực và các điểm chí trong năm. Cũng chính họ đưa ra ý tưởng lịch 12 tháng dựa trên chu kỳ Mặt Trăng. Đây là cơ sở cho loại lịch âm dương mà chúng ta sử dụng ngày nay. Không lâu sau, người Ai Cập học hỏi loại lịch 12 tháng này nhưng áp dụng với Mặt Trời.

+ Bánh xe và xe kéo: Người Lưỡng Hà trong những năm 3.000 TCN là những cư dân đầu tiên chế tạo một phương tiện di chuyển nhờ vào sức kéo động vật. Đến khoảng năm 2.000 TCN, xe kéo mới du nhập vào Trung Quốc. Xe kéo nguyên bản là một cỗ xe 2 hoặc 4 bánh được kéo bởi 2 hay nhiều con ngựa buộc sát cạnh nhau, được điều khiển bởi một người đánh xe. Cỗ xe được sử dụng trong nhiều mục đích như vận chuyển, diễu hành, thi đấu thể thao và cả trong chiến tranh. Xe kéo xuất hiện ở nền văn minh Lưỡng Hà cũng là điều dễ hiểu khi nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chính cư dân Lưỡng Hà là người sáng tạo ra bánh xe những năm 3.500 TCN phục vụ cho hoạt động sản xuất và vận tải.

+ Thuyền buồm: Do nhu cầu giao thương hàng hóa, người Sume nhận thấy di chuyển bằng đường bộ mất nhiều thời gian và không vận chuyển được hàng hóa số lượng lớn. Người Sume chế tạo ra một loại thuyền hình vuông có một cột cao gắn vải để nhờ sức gió di chuyển vượt các sông Tigris và Euphrates.

+ Lưỡi cày: Do nằm ở vùng đồng bằng rộng lớn giữa 2 con sông, nông nghiệp vẫn là ngành cơ bản của nền văn minh Lưỡng Hà. Người dân nơi đây có nhiều phát minh cho nông nghiệp, một trong số đó là lưỡi cày. Lưỡi cày đầu tiên được làm bằng gỗ, hình dạng đơn giản vào những năm 6.000 TCN. Buổi ban đầu, dụng cụ thường dính đất đá khi cày xong nên phải dùng tay gỡ đất. Lưỡi cày cũng không hoạt động tốt trong khu vực cỏ mọc quá dầy. Dần dần, các cư dân Lưỡng Hà phát triển lưỡi cày cho hiệu quả tốt hơn. Phát minh này đóng góp nhiều cho trồng trọt, đảm bảo cuộc sống nông nghiệp định thay vì hình thức du canh du cư

+ Bản đồ: Lưỡng Hà là vùng đất sử dụng bản đồ sớm nhất trên thế giới, trong đó bản đồ cổ nhất được phát hiện có niên đại khoảng 2300 năm TCN. Bản đồ này được khắc trên đất sét, mô tả vùng đất Akkadian ở Lưỡng Hà. Bản đồ được sử dụng như bản đồ thành phố, dùng trong quân sự hay trong thương mại. Dù là người phát minh nhưng trình độ làm bản đồ của người Lưỡng Hà không bằng người Hy Lạp, Roma sau này.

Advertisements (Quảng cáo)