I. Mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận phân tích:
1. Nội dung, ý kiến đánh giá của tác giả với nhân vật Sở Khanh: Sở Khanh là kẻ bẩn thỉu, bần tiện, đại diện cho sự đồi bại trong xã hội Truyện Kiều.
2. Tác giả đã phân tích ý kiến của mình như sau:
– Sở Khanh sống bằng nghề đồi bại, bất chính, nghề sống bám các thanh lâu, nghề làm chồng hờ của các cô gái làng chơi.
– Sở Khanh là kẻ đồi bại nhất trong những kẻ làm cái nghề đồi bại bất chính đó: giả làm người tử tế để đánh lừa một người con gái ngây thơ, hiếu thảo.
– Sau khi lừa bịp hắn còn trở mặt một cách tráo trở.
– Đặc biệt, cái hành động lừa bịp, tráo trở này là hành động thường xuyên của hắn, khiến hắn thậm chí trở thành một tay nổi tiếng bạc tình.
3. Đoạn trích có sự kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp lập luận phân tích và tổng hợp. Sau khi phân tích các chi tiết làm rõ các bộ mặt tráo trở, lừa bịp của Sở Khanh, tác giả đã đã tổng hợp và khái quát bản chất của hắn (…mức cao nhất của tình hình đồi bại trong xã hội này)
4. Một số đối tượng phân tích trong văn nghị luận như:
– nghị luận xã hội: thói hư tật xấu trong xã hội, đức tính tốt đẹp, một hiện tượng ở đời sống, một quan điểm sống,…
– nghị luận văn học: phân tích tính cách nhân vật trong tác phẩm, phân tích quan điểm của tác giả,…
5. – Phân tích trong văn nghị luận là chia nhỏ đối tượng thành các yếu tố, bộ phận để xem xét một cách kĩ càng nội dung, hình thức và mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của chúng, nêu lên bản chất của đối tượng. Mục đích của phân tích là làm sáng tỏ ý kiến, quan niệm nào đó.
Advertisements (Quảng cáo)
– Yêu cầu:
+ Cần đi sâu vào từng yếu tố, khía cạnh nhỏ
+ Phân tích bao giờ cũng gắn liền với tổng hợp.
+ Phân tích bao giờ cũng kết hợp giữa nội dung và hình thức.Đó là bản chất của thao tác phân tích trong văn nghị luận.
II. Cách phân tích
* Ngữ liệu (1)
– Phân tích theo quan hệ nội bộ của đối tượng: Đồng tiền vừa có tác dụng tốt, vừa có tác dụng xấu (sức mạnh tác oai tác quái).
Advertisements (Quảng cáo)
– Phân tích theo quan hệ kết quả – nguyên nhân:
+ Nguyễn Du chủ yếu vẫn nhìn về mặt tác hại của đồng tiền (kết quả).
+ Vì một loạt hành động gian ác, bất chính do đồng tiền chi phối… (giải thích nguyên nhân)
– Phân tích theo quan hệ nguyên nhân – kết quả: Phân tích sức mạnh của đồng tiền => Thái độ phê phán, khinh bỉ của Nguyễn Du khi nói đến đồng tiền.
Trong quá trình lập luận, phân tích luôn gắn liền với khái quát tổng hợp: Từ chỗ nêu lên được sức mạnh của đồng tiền, thái độ hành xử của các tầng lớp xã hội đối với đồng tiền, tác giả kết lại bằng cách đồng tình với thái độ của Nguyễn Du đối với xã hội đó.
LUYỆN TẬP:
BÀI 1: Tác giả đã phân tích những đối tượng từ những mối quan hệ đó là:
a) Tác giả đã sử dụng quan hệ nội bộ của đôí tượng. Để phân tính những nỗi niềm riêng cua Thuý Kiều, tác giả đã phân tích từng câu thơ có liên quan đến tâm trạng, tình cảnh của Thuý Kiều. Đó là diễn biến, các cung bậc tâm trạng của Thuý Kiều: đau xót quẩn quanh và hoàn toàn bế tắc.
b) Quan hệ giữa đối tượng này với các đối tượng khác có liên quan. Đối tượng được phân tích trong đoạn văn đó là tác giả phân tích những câu thơ mang nét rất riêng cho phong cách thơ Xuân Diệu để từ đó nói lên cái cảm xúc của nhà thơ. Để làm rõ hơn, tác giả đã đặt lối dùng câu từ của Xuân Diệu trong các bài thơ khác cũng có nội dung tương tự.
Bài 2: Vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật trong bài thơ “Tự tình II” – Hồ Xuân Hương.
Bài thơ Tự tình II không chỉ nói liên một tâm trạng vừa đau buồn, phẫn uất trước duyên phận, sự gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch của nhà thơ, một niềm khao khát vươn lên trên cuộc đời mà bài thơ còn là một minh chứng cho nghệ thuật sử dụng ngôn từ của Hồ Xuân Hương.
Trong bài thơ, ta có thể thấy được nghệ thuật sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh và cảm xúc của nhà thơ. Mỗi hình ảnh trong bài thơ đều mang những nét đặt trưng rất tiêu biểu cho thiên nhiên, gần gũi mà mộc mạc song đều thể hiện được rõ tâm ý của nhà thơ. Đó là hình ảnh của “đêm khuya” với văng vẳng đâu đó tiếng trống canh (đêm khuya sẽ càng thôi thúc lên tâm trạng của nhà thơ), là hình ảnh “cái hồng nhan” đối lập với “nước non” mênh mông rộng lớn để càng làm nổi bật lên sự cô đơn, lẻ loi của tác giả, là hình ảnh vầng trăng xế khuyết,… Tất cả những hình ảnh đó đều rất tiêu biểu cho những cung bậc cảm xúc của nhà thơ.
Một nét độc đáo trong phong cách sử dụng ngôn từ tiếp theo của Hồ Xuân Hương đó là sử dụng nghệ thuật dùng từ trái nghĩa. Hệ thống từ và hình ảnh trái nghĩa trong bài thơ được tác giả dùng xuyên suốt. Đó là sự đối lập của hồng nhan với nước non, đối lập trong những tính từ: xiên ngang với đâm toạc, đối lập trong cách sử dụng động từ: “đi” với “lại lại”,….
Đó còn là nghệ thuật sử dụng phép đảo trật tự cú pháp (ở 2 câu luận) để diễn tả tính cách kiên cường, cứng rắn của nhà thơ. Là việc tác giả sử dụng những hệ thống từ loại đan xen: động từ mạnh (xiên ngang, đâm toạc, tỉnh, đi, lại lại), các tính từ đặc trưng và rất tiêu biểu (trơ, xế khuyết, chưa tròn, tí con con,…), từ láy (văng vẳng),… Việc sử dụng đống loạt các hệ thống từ đó đã phần nào giúp cho bài thơ thành công hơn trong việc thể hiện tâm trạng của nhà thơ.
Chính việc sử dụng những từ ngữ như vậy đã phần nào giúp cho bài thơ thêm đặc sắc, góp phần lớn vào việc diễn tả tâm trạng hơn cũng như thể hiện tài năng của nhà thơ nhiều hơn.