I. Đọc-hiểu
Câu 1: Sở dĩ văn thơ không lưu hành hết ở đời là bởi sáu nguyên nhân, trong đó có bốn nguyên nhân chủ quan và hai nguyên nhân khách quan. Bốn nguyên nhân chủ quan là:
– Chỉ thi nhân mới thấy được cái hay cái đẹp của thơ ca
– Người có học thì ít để ý đến thơ ca
– Người quan tâm đến thơ ca thì không đủ năng lực và tính kiên trì
– Chính sách in ấn của nhà nước
Hai nguyên nhân khách quan là:
– Thời gian làm hủy hoại sách vở
– Binh hỏa (chiến tranh, hỏa hoạn) làm thiêu hủy tịch thư
Advertisements (Quảng cáo)
Sáu nguyên nhân trên dẫn đến một thực trạng làm đau xót và tổn thương đến lòng tự hào dân tộc của tác giả.
Lẽ ra, tác giả phải trình bày lí do này ở ngay phần đầu , nhưng ông lại đặt xuống cuối phần một, vì sao? Tác giả muốn đưa người đọc đến nhận thức rằng ‘Trích diễm thi tập” ra đời không phải do ý muốn chủ quan của tác giả, mà do yêu cầu của thời đại. vì thế, trước tiên tác giả trìn bày thực trạng tình hình di sản thơ ca Việt Nam lúc bấy giờ. Đó là nghẹ thuật lập luận đặc sắc của Hoàng Đức Lương.
Câu 2: Việc sưu tầm thơ ca vào thời của tác giả là hết sức khó khăn, vất vả. Trước hết, các tịch thư cũ không còn, tác giả phải “nhặt nhạnh ở giấy tàn, vách nát”, “hỏi quanh khắp nơi’, “thu lượm thêm thư của các vị hiện đang làm quan trong triều’ rồi phân loại chia quyển.
Câu 3: Hoàng Đức Lương đau xót trước thực trạng văn bản thơ ca của dân tộc, cảm thấy lòng tự tôn dân tộc bị tổn thương :”một nước văn hiến…chả đáng thương xót lắm sao” từ tình cảm và thực trạng kể trên, tác gải bắt tay vào sưu tầm “trích diễm thi tập”.
Cảm nghĩ về việc biên tập của tác giả:
Advertisements (Quảng cáo)
– Là công việc hết sức khó khăn, gặp nhiều trở ngại
– Công việc đó thể hiện ý thức trách nhiệm rất cao trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc
– Công việc đó có ý nghĩa lớn lao về mặt tinh thần và đáng được trân trọng.
Câu 4: Trước Hoàng Đức Lương, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi cũng đã từng đề cập đến nền văn hiến của dân tộc: “Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu ”…
Cả hai ý kiến đều phản ánh ý thức độc lập dân tộc và niềm tự hào về văn hiến dân tộc của nhân dân Việt Nam đang trên đà được khẳng định.
II.Luyện tập
Ngoài bài tựa của Trần Đức Lương, bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, còn nhiều tác phẩm của các tác giả khác như Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt (mặc dù chỉ là gián tiếp), Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu, Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hiền tài là nguyên khí quốc gia (Bài kí đề danh bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba) của Thân Nhân Trung là những dẫn chứng chứng tỏ các nhà văn. nhà thơ thời xưa rất tự hào về nền văn hiến dân tộc.
Điền hình như một vài câu sau đây trong ‘Đại cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi:
– “Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
– “Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.