I. Đọc hiểu văn bản:
Câu 1: Qua tiêu đề bài thơ, có thể thấy sự biểu hiện tình quê hương ở bài thơ có sự độc đáo là:
Nếu đọc nhan đề ta có thể nhận thấy tác giả lúc đầu không có ý định làm thơ khi vừa đặt chân về quê hương nhưng khi về đến nơi, tác giả bị coi là khách nên tác giả mới làm thơ. Vì vậy, bài thơ đã thể hiện tình yêu một cách rất khác đó là: tình yêu quê hương thể hiện ngay khi mới đặt chân về đến quê.
=> Tình yêu quê hương sâu nặng, luôn thường trực trong lòng tác giả nên ở bất cứ tình huống nào, nơi đâu thì nó cũng có thể bộc lộ được.
Câu 2: Hai câu đầu đã sử dụng phép đối trong câu (tiểu đối) khá chuẩn và chính xác:
Thiếu tiểu li gia – lão đại hồi, hương âm vô cải – mấn mao tồi. Mỗi câu có 2 vế, mỗi bộ phận trong mỗi vế đối nhau rất chỉnh.
+, Li gia (rời nhà) đối với đại hồi (trở về).
+, Hương âm (giọng quê hương) đối với mấn mao (tóc mai).
Advertisements (Quảng cáo)
=> Đối chỉnh cả lời và ý
+, Thiếu tiểu (lúc nhỏ) đối với lão (về già)
+, Vô cải (không thay đổi) đối với tồi (thay đổi)
=> Ý rất chỉnh, đọc lên rất hài hòa.
*Tác dụng của việc dùng phép đối đó là: đã cho ta thấy được ý nghĩa của cuộc đời xa quê của tác giả.
Advertisements (Quảng cáo)
Câu 3:
Phương thức biểu đạt |
Tự sự |
Miêu tả |
Biểu cảm |
Biểu cảm qua tự sự |
Biểu cảm qua miêu tả. |
Câu 1 |
X |
|
|
X |
|
Câu 2 |
|
X |
|
|
X |
– Câu 1 là kể khái quát, ngắn gọn quãng đời xa quê, làm quan nổi bật sự thay đổi vóc dáng, tuổi tác, hé lộ những tình cảm quê hương của nhà thơ. Đó là cảm xúc buồn buồn , bồi hồi trước sự chay trôi của thời gian.
– Câu 2 là câu miêu tả: về sự thay đổi của mái tóc nhưng giọng quê, tình cảm sâu nặng với quê vẫn vậy.
Câu 4: – Giọng điệu của hai câu đầu tuy nói về sự thay đổi của thời gian và của con người tuy có vẻ khách quan nhưng có gì đó phảng phất buồn.
– Hai câu sau thiên về tự sự và biểu cảm khi có sự xuất hiện của những đứa trẻ nhỏ. Đứa trẻ đó ngơ ngác không biết là ai, chúng coi ông như là một người khách lạ. Xa quê hương của mình và giờ trở về không ai nhận ra mình, tác giả đã sử dụng giọng điệu có chút hóm hỉnh nhưng chứa đựng nỗi buồn trong lòng.
II. LUYỆN TẬP:
So sánh hai bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần Trọng San:
– Giống nhau: đều sử dụng thể thơ lục bát và dịch rất sát nghĩa.
– Khác nhau:
+, Bản dịch của Phạm Sĩ Vĩ không có tiếng cười tếu của trẻ em.
+, Bản dịch của Trần Trọng San các chữ cuối không vần với nhau và âm điệu câu cuối không được mềm mại.