Câu 1: Những nét chính về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu.
Ông sinh năm (1822-1888), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (cái phòng tối), sinh tại quê mẹ ở làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Xuất thân trong gia đình nhà Nho. Thân phụ ông là Nguyễn Đình Huy, người Thừa Thiên, làm thư lại tại dinh Tổng trấn Lê Văn Duyệt ở Gia Định. Mẹ là Trương Thị Thiệt ở Gia Định.
– 1843, đỗ tú tài tại trường thi Gia Định
– 1846, ra Huế học nhưng được tin mẹ mất. Ông trở về chịu tang mẹ, ông vừa ốm nặng vừa thương khó mẹ nên bị mù cả hai mắt. Ông về quê dạy học và chuyển sang học thuốc.
– Về Gia Định mở trường dạy học, bốc thuốc, làm thơ => người có nghị lực phi thường.
– 1859, khi Pháp đánh vào Gia Định, ông về Ba Tri và giữ trọng tấm lòng thủy chung, son sắt với nước, với dân cho đến hơi thở cuối cùng.
Cuộc đời của nhà thơ tuy phải chịu nhiều đau thương, bệnh tật, công danh giang dở nhưng là một tấm gương sáng cao đẹp về nhân cách, nghị lực và ý chí, về lòng yêu nước, thương dân cùng thái độ kiên trung, bất khuất trước kẻ thù.
Câu 2: a. Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa
– Nhân: lòng yêu thương con người, sẵn sàng cưu mang con người trong cơn hoạn nạn.
– Nghĩa: những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người trong xã hội.
Advertisements (Quảng cáo)
– Mang tinh thần nhân nghĩa của đạo Nho nhưng đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc.
– Những nhân vật lí tưởng: con người sống nhân hậu, thủy chung, biết giữ gìn nhân cách ngay thẳng, dám đấu tranh và có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực bạo tàn, cứu nhân độ thế.
b. Nội dung của lòng yêu nước, thương dân
– Ghi lại chân thực thời kì đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù quân giặc, nhiệt liệt biểu dương những người anh hùng nghĩa sĩ hi sinh vì Tổ Quốc.
– Tố cáo tội ác của kẻ thù, lên án những kẻ bán nước, cầu vinh.
Advertisements (Quảng cáo)
– Ca ngợi những sĩ phu yêu nước
– Giữ niềm tin vào ngày mai
– Bất khuất trước kẻ thù
Khích lệ lòng yêu nước và ý chí cứu nước của nhân dân ta.
c. Nghệ thuật thơ văn mang đậm dấu ấn của người dân Nam Bộ.
Những câu văn mang đậm nét của lời ăn tiếng nói mộc mạc, giản dị, lối thơ thiên về kể. Đặc biệt là hình ảnh mỗi nhân vật trong các tác phẩm của ông đều mang đậm chất của người Nam Bộ. Chất đó được bắt gặp từ lời ăn, tiếng nói, ở sự mộc mạc, chất phác đến tấm lòng nặng tình nghĩa. Con người họ sống vô tư, phóng khoáng, ít bị ràng buộc bởi những phép tắc, lễ nghi và sẵn sàng xả thân vì nghĩa. Họ nóng nảy, bộc trực nhưng lại rất đằm thắm, ân tình. Đó là những nét rất riêng trong vẻ đẹp chung của con người Việt Nam.
Câu 3: Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Trãi đều có những điều gần gũi về tư tưởng nhân nghĩa: tất cả vì nhân dân.
Nguyễn Trãi lấy cái nền tảng của sự nhân nghĩa là ở dân “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” nhưng đến Nguyền Đình Chiểu thì phạm trù nhân nghĩa mới thực sự mở rộng đến nhân dân, gần gũi thực sự với nhân dân. Đó thực sự là một bước tiến dài của tư tưởng. Với ông, Nhân chính là lòng yêu thương con người, sẵn sàng cưu mang con người trong cơn hoạn nạn còn Nghĩa là những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người trong xã hội.
Luyện tập:
Nhận định trên của Xuân Diệu đã khái quát rất rõ về tình cảm, tấm lòng của Nguyễn Đình Chiểu đối với nhân dân. Tấm lòng yêu nước thương dân trong ông chính là một điều khiến ông luôn lo nghĩ trong lòng. Khi viết về nhân dân, ông luôn dùng cả một tấm lòng nhiệt thành, trân trọng và nâng nui nhất. Bởi ở họ luôn có sự đơn sơ, mộc mạc, bình dị. Tác giả tìm thấy được vẻ đẹp đó, khẳng định và ngợi ca những nét đẹp của họ.
Nguyễn Đinh Chiểu không chỉ yêu thương, trân trọng những người dân lao động hiền lành, chất phát mà ông còn luôn ca ngợi tinh thân yêu nước sâu sắc và nồng cháy trong họ. Để từ đó ông luôn ca ngợi, luôn dành sự ưu ái, kính mến trong lòng và trong các tác phẩm của ông.