Trang Chủ Bài tập SGK lớp 11 Soạn văn lớp 11

Soạn bài Người trong bao (An- tôn Páp- lô- vích Sê-khốp) Văn 11: Thảo luận về ý nghĩa thời sự của truyện ngắn này

Soạn bài Người trong bao (An- tôn Páp- lô- vích Sê-khốp) Văn 11: Câu 1. Nhà văn khái quát khát vọng mãnh liệt – kì dị của Bê-li-cốp là thu mình vào trong một cái vỏ, tạo cho mình một thứ bao có thể ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng của cuộc sống bên ngoài….

Câu 1: Chân dung Bê-li-cốp được miêu tả:

* Ngoại hình – thói quen:

– Ấn tượng: đây là một bức chân dung kì quái, dị thường

– Ngoại hình:

     + Gương mặt nhợt nhạt, bé nhỏ, choắt lại như mặt chồn, luôn có cặp kính đen trên khuôn mặt.

     + Nổi tiếng với cách phục sức kì lạ, khác người: luôn đi giày cao su, cầm ô, nhất thiết mặc áo bành tô ấm cốt bông.

Đặc biệt tất cả đều được cất trong bao: ô, đồng hồ, chiếc dao, thậm chí cả gương mặt cũng trong bao: đeo kính râm, giấu mặt sau cổ áo bành tô bẻ đứng lên, mặc áo bông chần, lỗ tai nhét bông. Cách miêu tả cụ thể, chi tiết khiến người đọc hình dung rõ nét về ngoại hình của Bê-li-côp: đây là một con người kì dị, khác người.

– Nhà văn khái quát khát vọng mãnh liệt – kì dị của Bê-li-cốp là thu mình vào trong một cái vỏ, tạo cho mình một thứ bao có thể ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng của cuộc sống bên ngoài. Sống với mọi người, giữa mọi người trong một môi trường xã hội, trong một trường học thì khát vọng ấy càng trở nên khó hiểu, trái khoáy và lập dị.

* Lối sống sinh hoạt:

– Câu nói cửa miệng: Nhỡ lại xảy ra chuyện gì.

– Phòng ở ngột ngạt như một cái hộp: luôn đóng cửa, cài then chật như cái hộp, khi ngủ trùm chăn kín đầu

– đi xe ngựa bao giờ cũng cho kéo mui lên

– ý nghĩ của mình cũng giấu vào trong bao, không bao giờ dám có ý kiến về một vấn đề nhỏ, to nào.

– ưa thích những cái rõ ràng: chỉ thị, thông tư, những bài báo cấm đoán…=> sống máy móc, giáo điều, rập khuôn như cái máy vô hồn

– Tôn sùng quá khứ, trốn tránh thực tại: dạy tiếng Hi Lạp, một thứ tiếng không có tình thời sự => tìm cách sống an toàn.

– Không ý thức được tình trạng bản thân, tự hài lòng với lối sống cổ lỗ của mình, luôn cho mình là công dân tốt của nhà nước: luôn sống cô độc, nhút nhát, sợ hãi mọi điều, lúc nào cũng “sợ nhỡ lại xảy ra chuyện gì”

– Cách duy trì quan hệ với đồng nghiệp: Kéo ghế ngồi, chẳng nói chẳng rằng, mắt nhìn xung quanh như tìm kiếm gì, 1 giờ sau ra về.

=> Hèn nhát, cô độc, máy móc, giáo điều, thu mình trong vỏ ốc và thấy mãn nguyện về điều đó.

=> Kiểu người trong bao, tính cách trong bao, lối sống trong bao.

=> Nhân vật điển hình.

* Lối sống và con người Bê-li-cốp từ lâu đã trở nên nổi tiếng, ảnh hưởng mạnh mẽ, dai dẳng đến cuộc sống và tinh thần anh chị em giáo viên trong trường nơi hắn làm việc, trong cư dân thành phố nơi hắn sống:

+ cách duy trì mối quan hệ tốt đẹp với bạn đồng nghiệp: đến nhà, kéo ghế ngồi im như phỗng, chẳng nói chẳng rằng, độ một giờ sau thì cáo từ

 + giáo viên, hiệu trưởng thậm chí cả thành phố đều sợ hắn: các bà cô không dám tổ chức diễn kịch tối thứ 7, nhà tu hành không dám ăn thịt và đánh bài, người ta sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách…

=> Bê-li-cốp không chỉ là một tác nhân kì quái, cổ hủ nhất, tầm thường, dung tục nhất, mà toàn bộ con người và tính cách của hắn chính là hiện thân, là điển hình cho một bộ phận, một kiểu người đã và đang tồn tại và có nguy cơ phát triển trong xã hội Nga đương thời. Bê-li-cốp chính là hệ quả của chế độ phong kiến chuyên chế đang phát triển mạnh mẽ trên con đường tư bản hóa ở Nga cuối thế kỉ XIX. Tính cách, kiểu người và lối sống như Bê-li-cốp chỉ có thể chấm dứt hoặc thay đổi tận gốc cùng với cả xã hội với một cuộc cách mạng xã hội và tư tưởng, văn hóa mà thôi.

Advertisements (Quảng cáo)

Câu 2: Cái chết của Bê-li-cốp: Bê-li-cốp chết một cách bất ngờ, gây cho mọi người trong trường, trong thành phố nơi hắn sống và làm việc không ít ngạc nhiên.

– Nguyên nhân cái chết của Bê-li-côp:

+ Vì bị ngã đau, dẫn đến mắc bệnh nặng, lại không chịu đi chữa.

+ Vì bị sốc nặng trước thái độ và hành động của chị em Va-ren-ca, của mọi người, nhất là lời nói và hành động của Cô-va-len-cô.

=> Cái chết của Bê-li-cốp không chỉ là một chi tiết quan trọng mà còn là một biện pháp nghệ thuật mà Sê-khốp đã sử dụng để đẩy tính cách nhân vật lên đến đỉnh điểm.

– Thái độ, tình cảm của mọi người đối với Bê-li-cốp khi hắn còn sống là sợ hãi, căm ghét, bị ám ảnh sâu sắc như đám mây đen bao phủ bầu trời. Bởi vậy nên khi hắn chết đi, mọi người cảm thấy như được giải thoát khỏi gánh nặng, thấy nhẹ nhàng, thoải mái, tự do,…

– Sau khi Bê-li-côp chết, tuần đầu tiên người ta thấy nhẹ nhõm, thoải mái. Nhưng rồi cuộc sống lại trở lại cái nhịp sống nặng nề, u ám, mệt nhọc, vô vị trước kia.

=> Từ đó, nhà văn khái quát ảnh hưởng, tác động sâu rộng, dai dẳng, nặng nề của kiểu người Bê-li-cốp. Lối sống trong bao đã ám ảnh, đầu độc bầu không khí trong sạch, lành mạnh của đạo đức, văn hóa và tiến bộ Nga đương thời.

Câu 3: Ý nghĩa tư tưởng – nghệ thuật của hình ảnh “cái bao”.

– Nghĩa đen: Vật dùng để đựng, gói đồ vật, hàng hóa hình túi hoặc hình hộp. Với nghĩa gốc này, cái bao là đồ dùng yêu thích và thường xuyên trong cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày của Bê-li-cốp.

– Nghĩa bóng: Lối sống, tính cách của Bê-li-côp.

– Nghĩa biểu trưng: kiểu người trong bao, lối sống trong bao – một kiểu người, một lối sống đã từng và đang tồn tại ở nước Nga cuối thế kỉ XIX. Cả xã hội Nga, phải chăng cũng là một cái bao khổng lồ trói buộc, tù hãm, vây bủa, ngăn chặn tự do dân chủ của nhân dân Nga, trí thức Nga chân chính.

Chủ đề tư tưởng của truyện:

– Lên án mạnh mẽ kiểu người trong bao. Lối sống trong bao và tác hại của nó tới hiện tại và tương lai của nước Nga.

– Lời cảnh báo và kêu gọi mọi người cần phải thay đổi cách sống, không thể sống tầm thường, hèn nhát, ít kỷ, vô vị mãi thế được.

Advertisements (Quảng cáo)

Câu 4: Nghệ thuật đặc sắc:

– Chọn ngôi kể:

   Nhân vật trong truyện đồng thời là nhân vật người kể chuyện ( Bu-rơ-kin ) ở ngôi thứ nhất ( xưng tôi ) và tác giả ( ngôi thứ ba giấu mình ). Tác giả kể chuyện về hai người bạn đi săn muộn, câu chuyện của họ trong căn nhà của ông trưởng thôn. Đó là câu chuyện thứ nhất, bao trùm bên ngoài. Câu chuyện thứ hai của nhân vật Bu-rơ-kin là chuyện chính về Bê-li-cốp lại nằm bên trong. Như vậy, vừa đảm bảo tính khách quan vừa vẫn thể hiện tính chủ quan, gây cảm giác chân thật, gần gũi của câu chuyện, tạo cấu trúc kể: truyện lồng trong truyện.

– Giọng kể:

   Mỉa mai, châm biếm mà trầm tĩnh, bên ngoài có vẻ khách quan, bình thản nhưng ẩn bên trong sự bức xúc, trăn trở mạnh mẽ, sâu sắc.

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật với tính kì quái nhưng vẫn chân thực, không những thế lại có ý nghĩa tiêu biểu qua lời kể, chân dung, ngoại hình, lời nói, cử chỉ, hành động mà khái quát thành tích cách, lối sống.

– Đối lập tương phản giữa các kiểu người, tính cách và lối sống trái ngược, giữa:

+ Bê-li-cốp và  chị em Va-ren-ca.

+ Bê-li-cốp và cán bộ, giáo viên trường trung học, nơi hắn làm việc và nhân dân nơi hắn sống.

– Nghệ thuật xây dựng biểu tượng: hình ảnh cái bao vừa biểu tượng, vừa cụ thể, hình tượng người trong bao ; cái chết của Bê-li-cốp.

– Kết thúc truyện, nhân vật nghe truyện – người đọc giả định – trực tiếp phát biểu chủ đề tư tưởng của truyện: “Không thể sống như thế mãi được !” Câu văn tạo ấn tượng mạnh với người đọc.

Câu 5: Ý nghĩa thời sự của truyện “Người trong bao”.

– Lối sống trong bao vẫn tồn tại trong xã hội ngày nay trong học đường (ở một số cá nhân): hèn nhát, ích kỉ, giáo điều, hèn hạ trước quyền lực.

– Không chịu tiếp thu những cái mới

– Trong cuộc sống luôn có những kẻ do sợ hãi mà xu nịnh cấp trên và tự thu mình trong các loại vỏ bọc để có được cảm giác an toàn. Những kẻ đó đều là bóng dáng của thói Bê-li-cốp. Những kẻ dọa báo cáo các việc làm không đúng theo quy định của đồng nghiệp lên cấp trên, không dám sống theo cảm xúc thực của mình cũng là biểu hiện của thói Bê-li-cốp trong cuộc sống.

=> Phê phán, chỉ trích, không đồng tình với lối sống đó. Xác định lối sống lành mạnh, chan hòa với mọi người, sống theo chuẩn mực văn hóa, đạo đức của cộng đồng hiện đại.

LUYỆN TẬP:

Câu 1: Tôi là Bê-li-cốp, giáo viên dạy tiếng Hi Lạp cổ ở một trường Trung học tỉnh lẻ. Tôi có thói quen là bất kể thời tiết nóng hay lạnh, trời xấu hay trời đẹp… đều phải mặc áo bành tô cốt bông, đi giày cao su và cầm ô. Mọi vật dụng cần thiết như chiếc đồng hồ quả quýt, cái dao nhỏ để gọt bút chì, thậm chí đến cả cái ô lúc không dùng tôi cũng để trong bao. Vì không thích người ta nhìn thấy mặt mình nên tôi thường hay bẻ đứng cổ áo lên, đeo kính râm và nhét bông vào lỗ tai. Khi ngồi trên xe ngựa, tôi bắt xà ích phải kéo mui lên che cho kín.

Tôi mắc phải một căn bệnh kinh niên, đó là bệnh sợ hãi. Tôi luôn luôn giấu mình vào trong một “cái bao” để ngăn cách và tự bảo vệ mình không bị ảnh hưởng bởi cuộc sống bên ngoài khiến tôi khó chịu và sợ hãi. Điều mà tôi ghê tởm chính là cuộc sống hiện tại, trong khi đó tôi lại thường ca ngợi và tôn thờ quá khứ. Ngôn ngữ Hi Lạp cổ mà tôi dạy cũng là một thứ “bao” vô hình giúp tôi có thể trốn tránh hiện thực đang diễn ra xung quanh.

Trước mọi người, tôi cố giấu kín ý nghĩ của mình. Nếu có đến chơi nhà một giáo viên nào đó, tôi kéo ghế ngồi, đưa mắt nhìn xung quanh một lúc rồi cáo từ. Đó là cách duy trì mối quan hệ với đồng nghiệp mà tôi cho là tốt nhất. Nhưng không hiểu sao giáo viên trong trường không thích gần tôi mà còn có vẻ sợ nữa. Ngay cả ông Hiệu trưởng cũng vậy. Tôi đi đến đâu cũng bị người ta xa lánh. Các bà, các cô tối thứ bảy không dám diễn kịch tại nhà vì sợ tôi biết lại phiền. Giới tu hành khi có mặt tôi thì không dám ăn thịt và đánh bài. Người ta đặt cho tôi biệt danh là “người trong bao” với ý châm biếm, giễu cợt.

Tôi ở cùng nhà với Bu-rkin, cửa phòng đối diện nhau cho nên tôi làm gì, sinh hoạt như thế nào anh ta đều biết hết. Có những điều tôi cho là bình thường thì Bu-rkin lại cho là lạ lùng. Ví dụ: đêm đêm, tôi thường đóng chặt hết cửa lớn cửa nhỏ, không cho gió lọt vào nhà. Lúc ngủ, tôi thường trùm chăn kín đầu, thế mà vẫn cảm thấy rờn rợn, chỉ sợ nhỡ xảy ra việc gì như kẻ trộm chui vào nhà chẳng hạn. Suốt đêm, tôi toàn mơ thấy những chuyện khủng khiếp cho nên sáng sáng đến trường, người cứ mệt mỏi rã rời.

 Có một giáo viên trẻ tên là Cô-va-len-cô mới về trường. Chị gái cậu ta khá xinh, tên là Va-ren-ca. Sự xuất hiện của hai chị em đã khuấy động không khí của cái tỉnh lẻ buồn chán này. Tôi để ý tới cô chị và thầm nghĩ mình cũng đã đến lúc phải lấy vợ. Hình như giáo viên trong trường cũng biết điều đó nên họ hay gán ghép tôi với Va-ren-ca. Chuyện bất ngờ xảy ra là không biết kẻ ngỗ nghịch nào đó đã vẽ bức tranh châm biếm đề dòng chữ Một kẻ tình si rồi gửi cho tôi. Ngay ngày chủ nhật hôm sau, tôi ngạc nhiên đến hoảng hốt khi tận mắt nhìn thấy hai chị em Cô-va-len-cô phóng xe đạp trên đường. Buổi tối, tôi quyết định đến nhà họ nhưng Va-ren-ca đi vắng, tôi đành nói chuyện với cậu em. Tôi tỏ ra không bằng lòng với việc cậu ta đi xe đạp vì cho rằng sẽ nêu gương xấu cho học sinh bắt chước. Cô-va-len-cô mặt đỏ gay, giận dữ bảo tôi rằng: “Việc ta và chị ta đi xe đạp chẳng liên quan gì đến ai cả! Con nào thằng nào thò mũi vào chuyện riêng của nhà ta, ta cho chầu Diêm vương tất!”. Thấy Cô-va-len-cô có thái độ hỗn xược như thế, tôi dọa là sẽ mách ông Hiệu trưởng.

Tưởng cậu ta sợ, ai ngờ cậu ta giận dữ túm cổ tôi đẩy xuống cầu thang. Tôi ngã lăn xuống đất, may mà không việc gì. Chiếc kính râm đeo mắt vẫn còn nguyên. Nhưng cũng chính lúc ấy, Va-ren-ca cùng với hai bà nữa vừa đi đâu về. Với tôi, đó thật là điều kinh khủng hơn cả gãy tay hay gãy cổ, vi tôi đã biến thành trò cười cho thiên hạ. Trước sau gì thì mọi người cũng sẽ biết chuyện này. Chao ôi! Lại sẽ có một bức tranh châm biếm khác. Biết đâu ông Hiệu trưởng lại chẳng ép tôi về hưu?! Nghĩ tới đó, tôi vô cùng sợ hãi. Nhận ra tôi, Va-ren-ca chợt cười phá lên: Ha ha ha!  Tiếng cười ấy của cô ta đã chấm dứt ý định cưới xin, chấm dứt cả cuộc đời tôi.

 Tôi lê bước về nhà, lên giường nằm và kéo chăn trùm kín đầu, không muốn nhìn, không muốn nghe bất cứ cái gì của cuộc đời này nữa. Tôi thấm thìa nỗi trống trải, cô đơn đang vây phủ quanh mình, ôi, giá mà tôi được chết ngay lúc này! Chiếc quan tài sẽ là cái “bao” vững chắc để tôi chui vào đó và vĩnh viễn không bao giờ ra nữa.

Câu 3: Không nên thay nhan đề “Người trong bao” bằng các nhan đề đã cho, vì nhan đề này giàu tính biểu tượng, vừa mang tính khái quát lại vừa gây ấn tượng sâu sắc. Hơn nưã, các nhan đề A,B,C,D không dịch sát nghĩa, không thể hiện hiện được tư tưởng của tác phẩm. Tuy nhiên nhan đề E có thể chấp nhận được vì đáp ứng được 2 yêu cầu trên.

Câu 4: – Con ốc nằm co.

– Nhát như thỏ đế.

– Rùa rụt cổ.

– Mũ nỉ che tai

– Co vòi rụt cổ.

– …

Advertisements (Quảng cáo)