Câu 1: – Kết cấu đoạn thơ:
+ Bốn câu đầu: giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều.
+ Bốn câu tiếp: gợi tả vẻ đẹp Thúy Vân/
+ Mười hai câu tiếp: gợi tả vẻ đẹp Thúy Kiều.
+ Bốn câu cuối: nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em.
– Từ miêu tả và giới thiệu chung, tác giả giới thiệu từng người. Theo trình tự giới thiệu Thúy Vân trước, sau đó giới thiệu Thúy Kiều. Không phải vì Thúy Vân được giới thiệu trước là quan trọng mà là tác giả đã cố ý đảo trật tự. Nhân vật trung tâm, quan trọng thì Nguyễn Du dành để giới thiệu sau, với số câu nhiều hơn.
Advertisements (Quảng cáo)
Câu 2: – Thúy Vân được miêu tả, so sánh với trăng, với hoa, với ngọc, với mây và với tuyết. Những hình ảnh đó cho thấy Vân là người cười tươi hơn hoa, tiếng nói trong như ngọc, kuoon mặt như trăng rằm, tóc óng hơn mây, da trắng hơn tuyết. Một vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang, quý phái.
– Chân dung Thúy Vân tuy chỉ gợi tả trong bốn câu nhưng khá rõ nét. Vẻ đẹp ấy mang tính cách và như dự báo trước số phận. Vẻ đẹp của Thúy Vân gợi ra sự hòa hợp, thân thiện với xung quanh: mây thua, tuyết nhường. Số phận của nàng sẽ bình lặng, suôn sẻ.
Câu 3: – Cũng như lúc tả Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Nàng “sắc sảo” về trí tuệ và “mặn mà” về tâm hồn.
Advertisements (Quảng cáo)
– Gợi tả vẻ đẹp của Kiều, tác giả vẫn dùng những hình tượng nghệ thuật ước lệ: “thu thủy” (nước mùa thu), “xuân sơn” (núi mùa xuân), hoa, liễu. Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi, tạo một ấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Điều đáng lưu ý là khi họa bức chân dung Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt. Bởi đôi mắt là sự thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Cái “sắc sảo” của trí tuệ, cái “mặn mà” của tâm hồn đều liên quan tới đôi mắt. Hình ảnh ước lệ “làn thu thủy” – làn nước mùa thu dợn sóng gợi lên thật sống động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt,… Còn hình ảnh ước lệ “nét xuân sơn” – nét núi màu xuân lại gợi lên đôi lông mày thanh tú trên gương mặt trẻ trung.
– Chân dung Thúy Kiều cũng là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp của Kiều làm cho tạo hóa phải ghét ghen, các vẻ đẹp khác phải đố kị – “hoa ghen”, “liễu hờn”- nên số phận nàng sẽ éo le, đau khổ.
– Nguyễn Du đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy, miêu tả Thúy Vân trước để làm nổi bật chân dung Thúy Kiều. Nguyễn Du chỉ dành bốn câu thơ để gợi tả Vân, trong khi đó dành tới mười hai câu thơ để cực tả vẻ đẹp của Kiều. Vẻ đẹp của Vân chủ yếu là ngoại hình, còn vẻ đẹp của Kiều là cả nhan sắc, tài năng, tâm hồn.
Câu 4: Bên cạnh vẻ đẹp về hình thức, tác giả còn nhấn mạnh vẻ đẹp về tài năng, về tâm hồn của Thúy Kiều. Tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, gồm đủ cả cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ), họa (vẽ). Đặc biệt tài đàn của nàng đã là sở trường, năng khiếu (nghề riêng), vượt lên trên mọi người (ăn đứt). Cực tả cái tài của Kiều cũng là để ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn “Bạc mệnh” mà Kiều tự sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm.
Câu 5: Khi miêu tả, Nguyễn Du đã dự báo số phận của hai người. Điều đó là đúng. Vẻ đẹp của Thúy Vân là một vẻ đẹp hiền lành. Chính vì vậy mà “mây thua, tuyết nhường”. Mà khi đối tượng đã nhường, đã thua thì không có gì căng thẳng, mâu thuẫn. Mọi việc sẽ suôn sẻ, hanh thông. Trái lại, vẻ đẹp của Thúy Kiều làm cho “nghiêng nước, nghiêng thành”. Như thế là đã gây tai họa cho người ta. Không những thế, vẻ đẹp đó lại còn làm cho “hoa ghen, liễn hờn”. Khi hoa, liễu, những cỏ cây vô tri, vô giác còn hờn, còn ghen thì con người sẽ gây khó dễ cho nàng là lẽ tất nhiên. Đời nàng sẽ khó về yên ổn, bình lặng.
Thực tế sau đó đã chứng minh cuộc đời Thúy Vân êm đềm, suôn sẻ. Còn Thúy Kiều thì “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”. Nàng không những phải bán mình, phải vào lầu xanh, phải làm đầy tớ, rồi lại hầu rượu Hồ Tôn Hiến, bị ép gả cho thổ quan. Đến mức nàng phải tự tử ở sông Tiền Đường. Về sau, tuy được sum họp với Kim Trọng, nhưng tình vợ chồng cũng chỉ là tình bạn bầy mà thôi.
Câu 6: Hai bức chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều đều đặc sắc “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”. Hai bức chân dung đều có những nét đẹp riêng của hai vẻ đẹp phúc hậu và sắc sảo. Về dụng công, thì Nguyễn Du tập trung cho bức chân dung của Thúy Kiều (vì nàng là nhân vật chính). Số câu dành cho Thúy Vân là 4, trong khi số câu dành cho Thúy Kiều là 16. Thúy Vân cũng được nói đến là có sắc, có tài, nhưng Nguyễn Du dành nhiều câu thơ để tả về tài năng của Thúy Kiều. Nói về ấn tượng thì chân dung của Thúy Kiều gây ấn tượng mạnh hơn về sắc, về tài, về tình. Nhưng về hình dáng bên ngoài thì bức chân dung của Thúy Vân cụ thể hơn, giúp người đọc hình dung ra nhân vật rõ nét hơn.